Chúng ta đang chứng kiến sự phát triển không ngừng của máy móc, không phải với vai trò khám phá, mà với vai trò là người sáng tạo.
Google vừa bắt đầu tài trợ một chương trình trí tuệ nhân tạo để viết các bài báo tin tức địa phương. Vào năm 2016, một nhóm các viện bảo tàng và nhà nghiên cứu ở Hà Lan đã giới thiệu một bức tranh chân dung mang tên The Next Rembrandt, một tác phẩm nghệ thuật tạo ra bởi một máy tính đã phân tích hàng nghìn tác phẩm của nghệ sĩ người Hà Lan thế kỷ 17 Rembrandt Harmenszoon van Rijn. Cùng trong năm đó, một cuốn tiểu thuyết ngắn được viết bởi một chương trình máy tính Nhật Bản đã đi đến vòng thứ hai của một giải thưởng văn học quốc gia. Và công ty tình báo nhân tạo do Google sở hữu, Deep Mind đã xây dựng phần mềm có thể tạo ra âm nhạc bằng cách nghe các bản ghi âm.
Đã từng có những công trình về máy tính viết thơ, chỉnh sửa ảnh và thậm chí sáng tác nhạc kịch.
Máy tính và quy trình sáng tạo
Các robot nghệ sĩ đã tham gia vào nhiều loại công trình sáng tạo trong một thời gian dài. Kể từ những năm 1970, các chương trình máy tính đã có thể tạo ra các tác phẩm nghệ thuật thô, và những nỗ lực này vẫn tiếp tục cho đến ngày hôm nay. Hầu hết các tác phẩm nghệ thuật do máy tính tạo ra phụ thuộc rất nhiều vào khả năng sáng tạo của các lập trình viên; máy móc chỉ đóng vai trò là dụng cụ. Nhưng ngày nay, chúng ta đang ở trong một cuộc cách mạng công nghệ có thể khiến chúng ta suy nghĩ lại sự tương tác giữa máy tính và quá trình sáng tạo. Cuộc cách mạng ấy được củng cố bởi sự phát triển nhanh chóng của phần mềm máy tính, một tập hợp con của trí tuệ nhân tạo có khả năng học tập mà không cần một người lập trình cụ thể.
Chương trình máy tính được phát triển cho việc học tập của robot có thuật toán tích hợp cho phép nó tiếp thu dữ liệu đầu vào, sau đó phát triển và đưa ra các quyết định độc lập hoặc được định hướng sẵn. Khi áp dụng cho các tác phẩm nghệ thuật, âm nhạc và văn học, thuật toán này cho phép robot tiếp thu dữ liệu do các lập trình viên cung cấp, để tạo ra một tác phẩm mới, đưa ra các quyết định độc lập trong quá trình hoạt động. Một đặc điểm quan trọng của loại trí tuệ nhân tạo này là các lập trình viên có thể thiết lập các tham số, công việc thực sự được tạo ra bởi chính chương trình máy tính – được gọi là mạng lưới thần kinh – giống như quy trình suy nghĩ của con người.
Tác động đối với luật bản quyền
Tạo ra các tác phẩm bằng cách sử dụng trí tuệ nhân tạo tác động lớn đối với luật bản quyền. Thông thường, quyền sở hữu bản quyền các tác phẩm do máy tính tạo ra không gây tranh cãi gì vì chương trình chỉ đơn thuần là một công cụ hỗ trợ quá trình sáng tạo, giống như cây bút hay tờ giấy. Tác phẩm đủ điều kiện để được bảo vệ quyền tác giả nếu nó là bản gốc, với hầu hết các định nghĩa đều yêu cầu tác giả là con người. Một số nước như Tây Ban Nha và Đức lại khẳng định rằng chỉ các tác phẩm được tạo ra bởi con người mới được bảo vệ bởi bản quyền.
Nhưng đối với công nghệ AI hiện đại nhất, các chương trình máy tính không còn là một công cụ, nó thực sự tham gia nhiều vào quá trình sáng tạo mà không cần sự can thiệp của con người.
Tác động thương mại
Có thể có ý kiến cho rằng sự khác biệt của AI là không quan trọng, nhưng cách thức mà luật pháp can thiệp vào sự sáng tạo bởi máy móc này có thể có ảnh hưởng sâu rộng tới ý nghĩa thương mại. Trí tuệ nhân tạo đang được sử dụng để tạo ra các tác phẩm âm nhạc, báo chí và game. Những tác phẩm này trên lý thuyết có thể được coi là miễn phí về bản quyền vì chúng không được tạo ra bởi con người. Như vậy, chúng có thể được tự do sử dụng và tái sử dụng bởi bất cứ ai. Đây sẽ là tin không tốt cho các công ty bán các tác phẩm. Hãy tưởng tượng bạn đầu tư hàng triệu vào một hệ thống tạo ra âm nhạc cho các trò chơi, chỉ nhận ra rằng đoạn nhạc đó không được bảo vệ bởi pháp luật và có thể được sử dụng miễn phí bởi bất cứ ai trên thế giới.
Rất khó để xác định chính xác tác động của nó đối với nền kinh tế sáng tạo và có thể có tác động tiêu cực đến việc đầu tư vào các hệ thống tự động. Nếu nhà phát triển nghi ngờ những tác phẩm được tạo ra bởi AI không đủ điều kiện để bảo vệ bản quyền, vậy động lực nào để đầu tư vào một hệ thống như vậy là gì? Mặt khác, đầu tư vào AI có thể để giải quyết vấn đề thời gian, công sức do có thể tiết kiệm các khoản chi phí nhân sự. Tuy nhiên vẫn còn quá sớm để nói điều này.
Vấn đề pháp lý liên quan đến bản quyền
Có 2 cách để luật bản quyền xử lý những vấn đề liên quan đến các tác phẩm được tạo ra không phải bởi con người. Một là phủ nhận quyền tác giả của tác phấm được tạo ra bởi chương trình máy tính; hai là quyền tác giả thuộc về người đã tạo ra chương trình máy tính đó.
Việc trao bản quyền tác phẩm do AI tạo ra chưa bao giờ bị cấm một cách cụ thể. Tuy nhiên, luật của nhiều nước không công nhận bản quyền của tác phẩm không phải con người tạo ra. Ở Hoa Kỳ Cơ quan bản quyền đã tuyên bố rằng một tác phẩm được đăng ký bản quyền với điều kiện tác phẩm đó được tạo ra bởi một con người. Lập trường này bắt nguồn từ một án lệ (Feist Publications v Rural Telephone Service Company, Inc. 499 U.S. 340 (1991)) quy định rằng luật bản quyền chỉ bảo vệ “thành quả lao động trí tuệ được hình thành bởi sức mạnh của trí tuệ”. Tương tự, một trường hợp gần đây tại Úc (án lệ Acohs Pty LtdvUcorp Pty Ltd), tòa án tuyên bố rằng một tác phẩm được tạo ra với sự can thiệp của máy tính không thể được bảo vệ bởi luật bản quyền vì nó không phải là một con người.
Tại Châu Âu, Tòa án Tư pháp của Liên minh châu Âu (CJEU) cũng đã tuyên bố bản quyền chỉ áp dụng đối với tác phẩm gốc và sáng tạo và phải phản ánh “sự sáng tạo trí tuệ riêng của tác giả”.
Còn ở một số quốc gia như Hồng Kông, Ấn Độ, Ireland, New Zealand và Vương quốc Anh thì họ trao quyền tác giả cho lập trình viên. Cách tiếp cận này được cho là tốt nhất trong luật bản quyền của Vương quốc Anh, phần 9(3) của Đạo luật Bản quyền, Thiết kế và Bằng sáng chế (CDPA) nêu rõ: “Trong trường hợp tác phẩm văn học, kịch, âm nhạc hay nghệ thuật được tạo ra từ máy tính, tác giả sẽ là người sắp xếp cần thiết cho việc tạo ra tác phẩm được thực hiện”.
Hơn nữa, điều 178 của CDPA định nghĩa một tác phẩm do máy tính tạo ra là một tác phẩm. Ý tưởng đằng sau một điều khoản như vậy là tạo ra một ngoại lệ cho tất cả các yêu cầu quyền tác giả của con người bằng cách nhận ra công việc tạo ra một chương trình có khả năng tạo ra tác phẩm, ngay cả khi tia lửa sáng tạo được thực hiện bởi máy.
Giải quyết sự nhập nhằng
Một câu hỏi lớn được đặt ra là ai sẽ được pháp luật bảo vệ quyền tác giả. Liệu luật pháp sẽ công nhận quyền cho lập trình viên hay người sử dụng chương trình đó? Điều này giống câu hỏi bản quyền sẽ được trao cho người làm ra cây bút hay người viết nên tác phẩm? Vấn đề của thế giới kỹ thuật số hiện nay giải thích cho sự nhập nhằng này. Ví dụ như trường hợp của Microsoft Word. Microsoft đã phát triển chương trình máy tính Word nhưng không sở hữu từng phần sản phẩm được tạo ra bằng phần mềm đó. Bản quyền thuộc về người dùng, tức là tác giả đã sử dụng chương trình để tạo tác phẩm của mình. Nhưng khi nói đến các thuật toán trí tuệ nhân tạo có khả năng tạo ra một tác phẩm, sự đóng góp của người dùng cho quá trình sáng tạo có thể chỉ đơn giản là nhấn một nút để máy thực hiện. Đã có một số chương trình có thể tạo văn bản trên mạng, trong khi đây là một lĩnh vực đang được nghiên cứu nên kết quả có thể rất đáng kinh ngạc. Sinh viên, tiến sĩ Stanford Andrej Karpathy đã dạy một “mạng lưới cảm giác” cách đọc văn bản và soạn các câu theo cùng một văn phong, “mạng lưới cảm giác” đó đã đưa ra các bài viết lên Wikipedia giống như ngôn ngữ của Shakespeare.
Các nghệ sĩ sử dụng AI ngày càng phổ biến hơn và việc sử dụng như vậy làm mờ đi sự khác biệt giữa các tác phẩm do con người tạo ra và những tác phẩm do máy tính tạo ra. Điều này vô cùng ý nghĩa đối với luật bản quyền, thường chỉ bảo vệ các tác phẩm do con người tạo ra.
Một số trường hợp, pháp luật chỉ ra rằng câu hỏi này có thể được giải quyết trên cơ sở từng trường hợp cụ thể. Trong trường hợp của Nova Productions v Mazooma Games (2007) EWCA Civ 219, Tòa phúc thẩm có quyền quyết định tác giả của một trò chơi máy tính, và tuyên bố rằng thông tin đầu vào của người chơi “không phải là nghệ thuật tự nhiên và anh ta đã không đóng góp bất kỳ công sức hay suy nghĩ gì ”. Vì vậy, xem xét hành động của người dùng theo từng trường hợp có thể là một giải pháp có tính khả thi cho vấn đề.
Tương lai
Mọi thứ sẽ trở nên phức tạp hơn khi các nghệ sĩ sử dụng AI ngày càng nhiều hơn và khi máy móc trở nên tốt hơn trong việc tạo ra các tác phẩm sáng tạo, điều đó sẽ làm mờ đi sự khác biệt giữa các tác phẩm nghệ thuật do con người tạo ra và máy tính tạo ra.
Những tiến bộ vô cùng to lớn về tính toán và khả năng tính toán có sẵn cũng có thể làm nảy sinh sự khác biệt. Khi bạn cung cấp cho máy tính khả năng học tập phong cách nghệ thuật, máy tính sẽ bắt chước con người tốt hơn. Và khi được cung cấp đủ khả năng tính toán, chẳng mấy chốc chúng ta có thể không phân biệt được nội dung là do con người tạo ra hay máy tính tạo ra. Vẫn chưa đến lúc đó, nhưng khi đến lúc đó, chúng ta sẽ phải quyết định loại bảo vệ nào, chúng ta nên ít hoặc không can thiệp tới các tác phẩm được tạo ra bởi các thuật toán thông minh. Mặc dù luật bản quyền đã tách khỏi các tiêu chuẩn cũ nhưng có lẽ chúng ta nên xây dựng một ngoại lệ cho xu hướng mới khi nói đến những thành quả của trí tuệ nhân tạo
Việc cấp bản quyền cho người vận hành các hoạt động của AI có thể là cách tiếp cận hợp lý nhất. Việc tiếp cận như vậy sẽ đảm bảo rằng các công ty sẽ tiếp tục đầu tư vào công nghệ và yên tâm rằng họ sẽ nhận được lãi từ việc đầu tư đó.
Cuộc tranh luận lớn tiếp đến sẽ là liệu các máy tính có nên được có quan hệ pháp lý và quyền lợi như con người hay không, nhưng đó lại là một câu chuyện hoàn toàn khác.
(WIPO)
Nguồn hình ảnh: Pixabay