Chúng ta đã biết những lợi ích không thể phủ nhận của hợp đồng li-xăng chéo hay thỏa thuận cấp phép chéo (cross licensing agreement) giữa các công ty sở hữu tài sản trí tuệ khác nhau. Nhờ những hợp đồng này, không chỉ nhà sản xuất mà ngay cả những người tiêu dùng cũng được lợi. Các công ty thì có thêm những khoản doanh thu béo bở từ việc phát triển những sản phẩm mới có sử dụng công nghệ của đối phương, còn người tiêu dùng thì được trải nghiệm những sản phẩm được tích hợp tài sản trí tuệ khác nhau. Li-xăng chéo là cách thức nhiều công ty lựa chọn để hạn chế xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, do đó những thỏa thuận liên tiếp được hình thành giữa những công ty công nghệ hàng đầu thế giới như Microsoft và Dell hay Xiaomi và Nokia.
Tuy nhiên, không có điều gì là hoàn hảo, luôn tiềm ẩn các nguy cơ bên cạnh những lợi ích mà giải pháp này mang lại. Hợp đồng li xăng chéo cũng có những hạn chế nhất định mà các bên tham gia phải cân nhắc cẩn thận trước khi đặt bút ký vào bản hợp đồng. Các nguy cơ đến từ sự khác biệt về địa lý, giá cả, khách hàng hay thị trường phát sinh từ quy chế cấp bằng độc quyền, các thỏa thuận trao đổi công nghệ quốc tế giữa các nhà sản xuất đã hạn chế việc phát triển các công nghệ mới. Việc chiếm đoạt hay lạm dụng gây bất lợi đến việc chuyển giao công nghệ là các nguy cơ tiềm ẩn khiến các công ty cần cân nhắc. Trong vòng 40 năm trở lại đây, thế giới đã chứng kiến không ít những vụ tranh chấp kéo dài và tốn kém giữa các công ty công nghệ về li-xăng chéo, điển hình là vụ việc giữa Intergraphic Corporation và Intel Corporation vào năm 1999. Vụ kiện tụng này nổi tiếng đến mức nó đã được Carl Shapiro – giáo sư đại học California sử dụng để nghiên cứu về việc thực thi các hợp đồng li xăng chéo về công nghệ.
Những người khổng lồ về công nghệ không chỉ tiên phong trong việc sáng chế ra công nghệ hữu ích, họ cũng là những nhà kinh doanh rất thông minh. Ngay từ cuối những năm 90 của thế kỉ trước, Intel – nhà sản xuất các bộ vi xử lý cao cấp hàng đầu thế giới – đã ký thỏa thuận li-xăng chéo với Intergraph Corporation, theo đó công ty này sẽ tạo ra những trạm máy tính sử dụng những bộ vi xử lý của Intel, thỏa thuận giữa hai bên cho phép Intergraph được quyền tiếp cận với bí mật kinh doanh rất hữu ích khi thiết lập các dòng máy tính sử dụng chip Intel, cùng với những mẫu cải tiến mới nhất của những bộ vi xử lý mới nhất của Intel. Vào thời điểm đó Intergraph trở thành đối tác rất có giá trị của Intel.
Trên thực tế, chưa rõ Intel thu được lợi ích gì từ thỏa thuận này nhưng ngay sau đó, hãng đã bị chính đối tác của mình kiện ra tòa với cáo buộc rằng những bộ vi xử lý của Intel đã vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của Intergraph. Những cuộc đàm phán liên tiếp được thiết lập nhưng không đem lại kết quả mong muốn mà chỉ dẫn đến sự rạn nứt ngày càng lớn trong mối quan hệ giữa hai bên. Intel ngay sau đó đã rút lại những quyền lợi đặc biệt mà Intergraph đã được hưởng. Điều này chắc chắn sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh vào lúc đó của Intergraph. Hãng này đã quyết không để cho Intel có thể rút lại thỏa thuận một cách dễ dàng. Intel sau đó cũng khẳng định rằng hành động của mình không dẫn đến sự độc quyền, làm hại đến sự cạnh tranh của bất kỳ thị trường liên quan và hãng cũng đề nghị phía Tòa án không can thiệp và ủng hộ Intergraph trong vụ tranh chấp giữa hai bên.
Sau một cuộc điều tra kéo dài vài tháng, vào tháng 6 năm 1998, Ủy ban Thương mại Liên Bang (Federal Trade Commission – FTC) đã dẫn chiếu luật chống độc quyền và kết luận Intel đã có hành vi vi phạm khi rút lại thỏa thuận với Intergraph. Chủ tịch của FTC đã nói rằng đây là hành động cưỡng chế chống độc quyền liên quan đến sở hữu trí tuệ được ghi nhận rộng rãi nhất trên toàn thế giới vào lúc đó. Vụ việc này cũng thu hút được sự chú ý của giới truyền thông, một phần cũng là bởi trong khoảng thời gian đó, Microsoft cũng bị kiện chống độc quyền. Các nhà bình luận thì lại đưa ra các quan điểm trái chiều hoài nghi quyết định của FTC, bởi Intel chủ yếu hướng vào khách hàng hơn là đối thủ cạnh tranh.
Vụ việc gây xôn xao suốt một thời gian dài đến nay đã dần chìm vào quên lãng và chỉ còn được nhắc đến trong những bài nghiên cứu về sở hữu trí tuệ. Tưởng rằng các hãng công nghệ đã có cận trọng hơn và sẽ không đi vào vết xe đổ của Intel nhưng mới đây, những vụ tranh chấp mới liên quan đến cross-licensing giữa hai trong số những nhà sản xuất điện thoại lớn nhất thế giới lại phát sinh. Giữa năm 2016, Huawei đã kiện Samsung ra tòa với cáo buộc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cho màn hình tinh thể lỏng (LTE) . Theo khiếu nại của hãng điện thoại Trung Quốc, Samsung đã thất bại trong việc cấp phép quyền sở hữu trí tuệ một cách hợp lý cho Huawei, nhưng lại tiếp tục sử dụng chúng trong tất cả các thiết bị LTE của mình. Vụ tranh chấp này có vẻ là hậu quả của một cuộc đàm phán cấp phép thất bại. Những thông tin chi tiết hơn về cuộc đàm phán giữa Huaweii và Samsung vẫn còn được giữ bí mật, nhưng những cuộc nói chuyện gần đây giữa hai bên đã không giải quyết được vấn đề. Càng bất ngờ hơn khi hai tháng sau đó, Samsung tiếp tục bị kiện với cáo buộc tiếp theo cũng liên quan đến vi phạm bằng sáng chế liên quan đến các giải pháp kỹ thuật cho thiết bị hiển thị đầu cuối được cấp cho Huawei hồi năm 2011.
Đầu năm 2017, Tòa án đã phán Huawei thằng kiện và Samsung phải bồi thường 11,6 triệu đô la Mỹ. Các tài liệu tại tòa án do Huawei cung cấp có liên quan đến 30 triệu thiết bị đã được bán ra với giá trị khoảng 12,7 tỷ USD. Trong danh sách các thiết bị vi phạm có tổng cộng khoảng 20 loại điện thoại thông minh và máy tính của Samsung, bao gồm cả Galaxy S7. Samsung chưa đưa ra bình luận chính thức nào sau quyết định của tòa án Trung Quốc.
Như vậy, có thể thấy thỏa thuận li-xăng chéo (cross-licensing) cũng không phải là một quyết định hoàn toàn mang đến thành công và lợi ích cho các bên tham gia. Thỏa thuận này chỉ có thể giúp cho các bên tránh được kiện tụng với một giới hạn nhất định. Hoạt động về sau liên quan đến các quyền cấp phép chéo cần được xem xét kỹ, nếu không, khả năng tranh chấp xảy ra luôn hiện hữu trước mắt.
TamTran (IP Attorney)